- Rắn Ráo trâu thuộc loài rắn hổ, tên khoa học là Ptyas Mucosus, là loài rắn nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Tên gọi của nó tùy vào nơi nó sống. Ở miền Đông người ta gọi nó là rắn Long Thừa,
miền Tây gọi là hổ hèo, miền Trung gọi là ráo trâu và miền Bắc là hổ trâu. Rất nhiều tên gọi nhưng tên chung của loài rắn này là hổ dện vì trên mình nó có nhiều vằn vện. - Đây không phải là loài rắn độc, nguy hiểm mà có nhiều công dụng trong y học, nhất là sản xuất thuốc chữa bệnh nên rắn Long thừa đang được bán trên trị trường với mức giá bình quân 450.000 đồng/kg.
[http://agriviet.com]
I. Kỹ thuật nuôi
1. Chuông nuôi
- Chuồng nuôi rắn có nhiều dạng, chuồng xi măng hoặc chuồng lưới.
- Diện tích chuồng nuôi: 2m x 1m x 1,2m (Dài X Rộng X Cao).
- Cửa chuồng làm ngang bên hông để tiện vệ sinh.
- Bên trong chuồng có vỉ tre để rắn nằm, mặt trên của chuồng lợp bằng
lưới sắt nhỏ để tạo sự thoáng mát, sạch và êm để rắn nghỉ ngơi.
- Đáy chuồng tráng một lớp xi măng mỏng, sau đó đắp lên một lớp đất khoảng 2cm
- Chuồng rắn có thể đặt ở vị trí đầu nhà nơi có mái che hoặc tận dụng
các gian nhà trống để nuôi, chỗ đặt chuồng phải đảm bảo thông thoáng,
sạch sẽ, chống gió lạnh thổi vào. Mỗi chuồng có thể nuôi được 50 con
rắn.
- Theo kinh nghiệm nhiều năm trong chăn nuôi rắn, loài rắn rất dễ gần
nếu như đã quen hơi với người nuôi. Đặc biệt khi cho rắn ăn phải mang đủ
các thiết bị phòng hộ như: kính, găng tay, ủng cao su và nhất là không
uống rượu trước khi vào chuồng rắn tránh bị lạ hơi gây sự phản ứng của
rắn.
- Trước đây, việc cho rắn ăn là đưa mồi vào chuồng một lúc, không kiểm
tra được khẩu phần ăn của từng con nên dễ xảy ra tình trạng dư thừa
thức ăn gây tốn kém và lãng phí. Điều này làm rắn chán ăn và gây ô
nhiễm, ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng rắn, rắn trưởng thành không
đồng đều.
- Trong quá trình nuôi, phải thường xuyên phân loại rắn, phát hiện kịp
thời và cách ly rắn bệnh để điều trị, ngăn ngừa dịch bệnh cho rắn,
tránh thất thoát trong quá trình chăn nuôi.
2. Thức ăn
- Rắn là loài động vật hoang dã mới được thuần hóa, sức đề kháng cao,
ít dịch bệnh, có khả năng thích ứng với điều kiện nuôi dưỡng. Chúng rất
kỹ tính, thức ăn chính của chúng là cóc, nhái … và chúng ăn rất sạch,
con mồi phải còn sống. Hơn nữa, rắn chỉ ăn khoảng 2-3 lần trong 1 tuần.
- Thức ăn của rắn non chủ yếu là ếch, nhái nhỏ, cá, tép…Cứ 3-5 ngày lại
cho rắn ăn một lần, số lượng thức ăn tăng dần theo tuổi.
- Thức ăn của rắn trưởng thành chủ yếu là chuột, cóc, ếch, nhái…Rắn bắt
mồi bằng cách đớp, ngoạm, răng cong vào trong nhờ cấu tạo của xương
hàm mở rộng nên có thể nuốt được những con mồi lớn.
- Thức ăn cho rắn không được cho vào tràn lan như trước, mà phải đựng
vào trong thùng để khi đói rắn có thể vào ăn, những thức ăn thừa sẽ
không bị rơi vãi ra ngoài làm bẩn chuồng rắn.
- Nước uống: tốt nhất nên cung cấp đầy đủ nước sạch và mát cho rắn uống
và tắm tự do. Trong chuồng cần đặt vật chứa nước cho rắn tắm và uống,
phải thay nước hàng ngày. Nên đặt bóng đèn trong chuồng rắn, nhằn tạo
cho rắn thích nghi với ánh sáng và tạo nhiệt độ ấm cho rắn (nếu vào mùa
đông).
II. Kỹ thuật sinh sản
Việc chọn giống rắn làm bố mẹ rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng con rắn sau này.
1. Chọn và chăm sóc rắn sinh sản
- Chọn rắn đực, rắn cái làm giống phải dựa trên ngoại hình, rắn từ khi
sinh ra đến trưởng thành không có lần nào bị nhiễm bệnh. Trong quá
trình nuôi, rắn chóng lớn, da rắn mượt, thân hình dài cân đối.
- Rắn đực và rắn cái phải khác dòng để khi lai tạo tránh nhiễm trùng huyết.
- Quá trình sinh trưởng phát triển của rắn phải trải qua những lần lột
da. Đối với loài rắn Long Thừa, thời gian rắn thay da khoảng 15-20 ngày
và tiếp tục thay da trong suốt quá trình rắn lớn, một con rắn cái từ
lúc nở đến lúc sinh sản từ 9-10 tháng tuổi. Sau khi thay da nếu được
cung cấp thức ăn đầy đủ, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, tốc độ tăng trưởng
của rắn có thể tăng nhanh hơn 2-3 lần.
- Bên cạnh việc chọn lựa rắn giống thì vấn đề đảm bảo tỷ lệ trứng rắn
nở cao cũng cần được quan tâm. Để đảm bảo tỷ lệ trứng nở cao chúng ta
có thể nuôi ghép 2 con rắn đực với 10 con rắn cái.
- Thời gian rắn đẻ sau khi phối giống khoảng 30 đến 35 ngày. Một con cái có thể đẻ từ 12 – 21 trứng.
2. Kỹ thuật ấp trứng
- Dụng cụ ấp trứng rắn của nông dân hiện nay rất đơn giản (một cái lu),
lấy đất có độ ẩm 25-30 độ bỏ vào ½ lu, sau đó xử lý thật chặt, tiếp
theo rãi thêm 01 lớp cát trải mỏng rồi bỏ trứng rắn vào, dùng bao diêm
hoặc vải bịt miệng lu lại, khoảng 75 ngày sau rắn tự nở.
- Trong điều kiện chăn nuôi, khi ấp trứng cần kiểm tra trứng vài lần,
nếu thấy các quả trứng to đều, trắng, khô ráo là trứng tốt, những quả vỏ
xỉn vàng là trứng hỏng phải loại bỏ ngay.
3. Kỹ thuật nuôi rắn con
- Rắn con mới nở thả vào chuồng cho uống nước khoảng 7 ngày sau rắn
thay da, khi rắn thay da thả nhái nhỏ vào để rắn ăn, trung bình 50 con
rắn con 01 tháng tuổi mỗi ngày ăn khoảng 0,5kg nhái con.
- Rắn con để nuôi hiện có giá từ 50.000- 70.000đ/01con. Rắn 8 tháng
tuổi có trọng lượng từ 1,2kg trở lên thì mới đẻ nhiều trứng.
III. Quản lý chăm sóc, phòng trị bệnh
- Công việc quản lý vệ sinh chuồng trại cũng là yếu tố quyết định đến
kết quả nuôi. Nếu quản lý không tốt dễ dẫn đến thiệt hại. Thường ngày
phải dọn phân trong chuồng, số phân hàng ngày thải ra không nhiều, phân
thường khô, ít mùi hôi.
- Rắn là động vật hoang dã, ít bị bệnh. Tuy nhiên, biện pháp phòng bệnh
tổng hợp cho rắn là biện pháp tốt nhất: chăm sóc nuôi dưỡng tốt, ăn
uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo thành phần và giá trị dinh dưỡng, chuồng
trại luôn sạch sẽ, không lầy lội, không nóng quá, lạnh quá, không có
mùi lạ, tránh ruồi nhặng và các loại côn trùng khác gây hại cho rắn.
Rắn Long Thừa là loài rắn ít bị bệnh hơn các loài rắn khác, song trong quá trình nuôi đôi lúc rắn cũng bị bệnh tiêu chảy.
→ Khi rắn bị tiêu chảy, cách nhận biết như sau:
Hàng ngày dọn vệ sinh chuồng cho rắn, khi quan sát thấy số lượng phần
ăn của rắn giảm, có hiện thượng phân hôi, nhão đó là bệnh tiêu chảy.
→ Để điều trị bệnh này ta áp dụng biện pháp sau:
Cho rắn ăn ít lại và cho uống men tiêu hóa chống tiêu chảy. Hàng ngày,
quét dọn đáy chuồng, rửa máng nước, loại bỏ phần thức ăn thừa. Đồng
thời phải đảm bảo chế độ và số lượng thức ăn theo nhu cầu của rắn trong
từng thời kỳ (dựa theo trọng lượng của rắn).
IV. Thông tin giá thành
- Trước đây, nhiều người dân đi bắt rắn hoang dã để bán không những vi
phạm Luật bảo tồn động vật hoang dã, mà hiệu quả kinh tế cũng thấp, do
rắn hoảng sợ, giảm sức khỏe, tổn thương khi bị đuổi bắt, rắn chậm lớn,
thất thoát cao. Nhưng thông qua mô hình nuôi rắn sinh sản này, người
dân không còn bắt rắn con ngoài tự nhiên đem về nuôi, mà người nuôi
trước nhân giống, chuyển giao kỹ thuật và bán giống cho người sau. Nghề
nuôi rắn đã làm cho nhiều hộ chuyển sang bắt chuột để bán làm giảm
đáng kể nạn “giặc chuột” phá hoại mùa màng tại địa phương, đồng thời
đây lại là biện pháp giúp người dân có thêm nguồn thu nhập trong lúc
nông nhàn.
- Nếu như trước đây đối với đa số người dân rắn là nỗi sợ hãi thì hiện
nay thông qua việc nuôi rắn, chúng như những người bạn trong mỗi gia
đình. Với việc nuôi rắn trong chuồng, tiếp xúc với rắn hàng ngày tạo cho
rắn thân thiện với con người. Có thể nói, con rắn đối với người dân
rất quan trọng, bởi vì ngoài giá trị làm thuốc để chữa bệnh và bồi bổ
sức khỏe, rắn còn có giá trị kinh tế đem lại nguồn thu nhập cao, tạo
công ăn việc làm cho người dân.
- Hiện nay, thị trường tiêu thụ rắn rất phong phú và đa dạng. Rắn
thương phẩm đang được cung cấp cho nhiều nhà hàng, khách sạn trong nước
và một phần phục vụ cho xuất khẩu.
- Trọng lượng rắn nuôi trong một năm bình quân khoảng 1,3kg/01 con, với
giá thị trường 450.000đ/kg, trừ đi chi phí ban đầu thì với 100 con rắn
thương phẩm lợi nhuận mang về khoảng 40- 50 triệu đồng /01 năm.
* Đối với việc bán giống: rắn con (khoảng 01 tuần tuổi) được xuất
chuồng dưới dạng rắn giống với giá thành từ 50.000- 70.000đ/01con. Như
vậy, nếu nuôi 100 con rắn giống cái, sau một lứa đẻ có thể mang về cho
người nuôi khoảng 84 triệu đến 119 triệu (chưa trừ chi phí ban đầu).
Kỹ thuật nuôi rắn ráo trâu, Nguồn: Khuyến nông Việt Nam.